Thứ Năm, 4 tháng 9, 2014

Sử dụng gạch không nung rẻ hơn 30% so với gạch đất sét nung thông thường

Thời gian gần đây, các dự án sản xuất vật liệu không nung được tỉnh Bà Rịa -Vũng Tàu đẩy mạnh. Lợi ích mang lại khi sử dụng loại vật liệu mới này trong xây dựng các công trình là rất lớn, đặc biệt trong việc bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, việc triển khai sử dụng vật liệu không nung không phải đơn giản, vì việc này đồng nghĩa với sự từ bỏ thói quen  sử dụng vật liệu truyền thống. 
Vật liệu xây dựng không nung dùng trong xây dựng bao gồm gạch, các tấm pa-nen, thạch cao… Khác với vật liệu truyền thống, việc sản xuất chúng không sử dụng nhiệt để nung.
Theo tính toán thực tế của các nhà thầu xây dựng tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, sử dụng 1m2 gạch không nung so với 1m2 gạch nung kiểu truyền thống giá thành giảm từ 20 đến 30%; cường độ chịu lực cao hơn; nhà ở mát mẻ hơn, và điều đáng nói là không phải dùng chất đốt, không xả thải vào môi trường.
“Sử dụng gạch không nung để giảm thiều ô nhiễm,  giá thành rẻ hơn, vận chuyển, thi công đều thuận tiện, không khác gì gạch truyền thống. Với công nghệ mới, gạch nhẹ hơn, dẫn đến kết cấu công trình giảm thiểu, giá thành công trình giảm tương đối nhiều; nhà sản xuất lại còn quan tâm đến người tiêu dùng, có chính sách hỗ trợ tốt hơn so với gạch truyền thống” - ông Nguyễn Nam Phương,  Giám đốc Công ty xây dựng Nam San tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu nhận xét.
Hai năm trước đây, Bộ Xây dựng đã có Thông tư 09 chỉ đạo đầu tư sản xuất vật liệu không nung để cung cấp cho ngành xây dựng nhưng đến nay việc triển khai các dự án vật liệu không nung còn chậm.
Trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu hiện mới chỉ có 5 đơn vị đầu tư sản xuất vật liệu xây không nung với công suất khoảng 200 triệu viên/năm. So với dự báo nhu cầu sử dụng vật liệu không nung của tỉnh đến năm 2015 khoảng hơn 400 triệu viên/năm, sản lượng sản xuất hiện tại mới chỉ đảm bảo khoảng một nửa so với nhu cầu sử dụng.
Vậy tại sao vật liệu không nung mặc dù có ưu điểm nhiều hơn vật liệu cũ lại ít  được sử dụng trong xây dựng?  Ông Lê Ninh Trang, Trưởng phòng Giám định Sở Xây dựng tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu giải thích: “Vật liệu sét nung đối với thị trường  Việt Nam đã có hàng hàng trăm năm, thói quen sử dụng có từ người dân, nhà đầu tư. Nay chuyển thói quen đó sang dùng vật liệu mới phải có lộ trình nhất định, vì muốn làm điều này bắt đầu phải từ chính sách đến điều kiện của nhà kinh doanh,  thói quen sử dụng của người dân, kể cả người thi công phải thay đổi thao tác,  doanh nghiệp phải xây dựng thị trường, các đại lý bán hàng phải thay đổi. Tôi tin rằng, gạch không nung sẽ phát triền”.
Ngoài thói quen sử dụng, một khó khăn nữa là sự đi xuống của thị trường bất động sản, việc nhiều chủ đầu tư dự án còn lúng túng trong việc  đưa vật liệu này vào công trình xây dựng. Điều này khiến các nhà đầu tư không mặn mà bỏ vốn sản xuất vật liệu không nung. Đơn vị dám đi đầu trong lĩnh vực này trong tỉnh phải kể đến Công ty cổ phần Thành Chí ở  huyện Châu Pha, huyện Tân Thành.  Tại phân xưởng sản xuất của công ty, trong tiếng máy nén gạch đang hoạt động, ông Nguyễn Thế Thường, Tổng Giám đốc vui vẻ giới thiệu với chúng tôi sản phẩm gạch tiêu chuẩn cỡ 19x19x39cm do dây chuyền sản xuất tự động làm ra,   đều tăm tắp, dày dặn nhưng nhẹ hơn gạch cùng loại bằng đất nung.
Ông cho biết đang đầu tư thêm một dây chuyền sản xuất vật liệu không nung tự động công suất 100.000 viên/ngày, phấn đấu đạt mục tiêu 60 triệu viên/năm như dự kiến.  
Ngoài sản phẩm gạch không nung, công ty còn sản xuất thêm các loại vật liệu khác như gạch lát; ngói lợp không nung, mẫu mã đa dạng. Hiện nay, sản phẩm của công ty đã có đầu ra.
“Đối với nhà sản xuất vật liệu không nung, nhà nước nên khuyến khích về điều kiện đầu tư, về vốn vay có ưu đãi, bước đầu giảm các loại thuế, tạo điều kiện cho doanh nghiệp sản xuất. Hơn nữa, qui trình theo lộ trình đến từng năm nào phải tuân thủ triệt để. Hiện nay, một số gạch không nung chúng tôi sản xuất ra đề làm quen theo lộ trình cho người tiêu dùng, nhưng trong tiêu chuẩn vật liệu xây dựng chưa có, đề nghị nhà nước nghiên cứu ban hành cái này, đề đưa vào dự toán, từ đó mới quyết toán được công trình” - ông Nguyễn Thế Thường chia sẻ.
Để đẩy mạnh hơn tiến độ sử dụng gạch không nung, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp sản xuất loại vật liệu này, UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã có văn bản yêu cầu chủ đầu tư, nhà thầu tư vấn thiết kế và giám sát, nhà thầu thi công xây dựng, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý đầu tư xây dựng phải thực hiện nghiêm túc qui định: các công trình xây dựng mới được đầu tư bằng nguồn vốn nhà nước trên địa bàn tỉnh từ nay đến hết năm 2015 phải sử dụng tối thiều 50% vật liệu không nung; các công trình xây dựng mới từ 9 tầng trở lên không phân biệt nguồn vốn phải sử dụng tối thiểu 30% vật liệu xây không nung và sau năm 2015 phải sử dụng tối thiều 50% vật liệu xây không nung trong tổng số vật liệu xây dựng. 
Hy vọng với lộ trình như trên, vật liệu xây không nung sẽ dần thay thế các loại vật liệu nung ở tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, góp phần tích cực vào việc bảo vệ môi trường trên địa bàn tỉnh./.

Phát triển Vật liệu xây không nung: Từng bước thay thế vật liệu nung

Phát triển Vật liệu xây không nung: Từng bước thay thế vật liệu nung

 Bộ Xây dựng vừa có công văn gửi Ủy ban Kinh tế Quốc hội báo cáo về chủ trương Từng bước giảm dần sản xuất và sử dụng gạch đất sét nung, tăng cường sản xuất và sử dụng vật liệu xây không nung (VLXKN).
Theo đó, ngay từ những năm cuối của thế kỷ 20, Bộ Xây dựng đã nhận thấy việc đầu tư phát triển sản xuất gạch ngói đất sét nung bằng lò thủ công tràn lan tại các địa phương gây hậu quả lớn: tiêu hao đất sản xuất nông nghiệp, sử dụng không hiệu quả nguồn nhiên liệu hóa thạch (than, dầu, khí) và gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.
Theo tính toán, để sản xuất ra 1 tỷ viên gạch đất sét nung theo kích thước tiêu chuẩn sẽ tiêu tốn khoảng 1,5 triệu m3 đất sét, tương đương 75 ha đất nông nghiệp và 150,000 tấn than, đồng thời thải ra khoảng 0.57 triệu tấn khí CO2, gây hiệu ứng nhà kính và các khí thải độc hại khác gây ô nhiễm môi trường. Như vậy hiện nay hàng năm chúng ta đang sản xuất và tiêu thụ khoảng 24 tỷ viên thì sẽ tiêu tốn khoảng 36 triệu m3 đất sét, tương đương 1.800 ha đất nông nghiệp và 3,6 tấn than, đồng thời thải ra khoảng 14 triệu tấn khí CO2 và với 40 tỷ viên vào năm 2020 thì sẽ tiêu tốn khoảng 60 triệu m3 đất sét, tương đương 3.000 ha đất nông nghiệp, 6 triệu tấn than, đồng thời thải ra khoảng 23 triệu tấn khí CO2 và phải tốn một diện tích rất lớn để chứa tro xỉ thải ra.
Từng bước thay thế vật liệu xây nung
Để từng bước khắc phục tình hình nêu trên, năm 2000, Bộ trưởng Bộ Xây dựng đã ban hành Quyết định số 15/2000/QĐ-BXD ngày 24/7/2000 Quy định về đầu tư sản xuất gạch ngói đất sét nung và đã đưa ra lộ trình chấm dứt hoạt động của các lò gạch thủ công sản xuất gạch nung.
Tiếp đó, năm 2001, Bộ Xây dựng đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 115/2001/QĐ-TTg ngày 01/8/2001 phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp vật liệu xây dựng (VLXD) Việt Nam giai đoạn 2001-2010 (gọi tắt là Quyết định 115) trong đó quy định đối với vật liệu xây: “Tổ chức lại sản xuất kinh doanh vật liệu xây thủ công ở các địa phương, nhằm giảm tối đa sử dụng đất canh tác và xây dựng các lò gạch thủ công không theo quy hoạch gây ô nhiễm môi trường tại các vùng ven đô thị, thành phố, thị xã, thị trấn. Từng bước phát triển sản phẩm gạch không nung ở những vùng không có nguyên liệu nung, tiến tới xoá bỏ việc sản xuất gạch đất sét nung bằng lò thủ công ở ven các đô thị trước năm 2005, ở các vùng khác trước năm 2010”.
Đến năm 2008, Bộ Xây dựng đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 121, phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp VLXD Việt Nam đến năm 2020 (gọi tắt là Quyết định 121), trong đó quy định về đầu tư sản xuất gạch đất sét nung: Đầu tư chiều sâu cải tiến công nghệ sản xuất gạch đất sét nung ở tất cả các cơ sở sản xuất hiện có, nhằm giảm tiêu hao nguyên liệu, nhiên liệu và bảo vệ môi trường. …
Để triển khai có hiệu quả Quyết định 121, Bộ Xây dựng đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 567/QĐ-TTg ngày 28/4/2010 phê duyệt Chương trình phát triển vật liệu xây không nung đến năm 2020 (gọi tắt là Quyết định 567 và Chương trình 567).
Sau hơn một năm triển khai thực hiện Chương trình 567, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 10/CT-TTg ngày 16/4/2012về việc Tăng cường sử dụng vật liệu xây không nung, hạn chế sản xuất và sử dụng gạch đất sét nung ( gọi tắt Chỉ thị 10).
Xây dựng lộ trình phát triển VLXKN
Sau một thời gian triển khai thực hiện Quyết định 567, hiệu quả đạt được tại các địa phương khá rõ rệt. Trước khi có Quyết định 567, số liệu thống kê năm 2009 trên toàn quốc đã sản xuất được khoảng 23 tỷ viên quy tiêu chuẩn (QTC); trong đó VLXKN khoảng 8%, gạch đất sét nung 92% (trong số gạch nung có gạch sản xuất bằng công nghệ lò tuynel chiếm 57%, lò thủ công chiếm 38%, các loại lò khác chiếm 5%).
Số lượng lò gạch thủ công ở một số tỉnh vẫn còn cao như: An Giang, Quảng Ninh, Quảng Bình, Đồng Tháp, thành phố Hà Nội, Hưng Yên, Kon Tum, Vĩnh Long. Đặc biệt có một số tỉnh có số lượng lò đứng thủ công lớn nhất toàn quốc là Bắc Giang 2500 lò, An Giang 1551 lò, thành phố Hà Nội 1100 lò (theo số liệu báo cáo của các tỉnh năm 2009).
Ngay sau khi Quyết định 567 và Chỉ thị số 10 của Thủ tướng, Thông tư 09 của Bộ Xây dựng được ban hành, nhiều địa phương đã triển khai thực hiện.
Hiện nay có 8 tỉnh đã xây dựng Lộ trình xóa bỏ lò gạch thủ công, lò thủ công cải tiến, lò vòng sử dụng nhiên liệu hóa thạch trình Bộ Xây dựng thẩm định và ban hành là các tỉnh: Kon Tum, Quảng Ngãi, Bến Tre, Bắc Ninh, Sóc Trăng, Thái Nguyên, Dak Nông và Lào Cai.
Theo báo cáo của Bộ xây dựng, đến hết năm 2012, trên phạm vi toàn quốc đã đầu tư các dây chuyền sản xuất VLXKN với tổng công suất khoảng 5,4 tỷ viên QTC, so với sản lượng vật liệu xây sản xuất năm 2012 chiếm 27% (sản lượng vật liệu xây năm 2012 khoảng 20 tỷ viên QTC). Trong đó gạch xi măng cốt liệu là 4 tỷ viên và gạch bê tông nhẹ là 1,4 tỷ viên. Như vậy sau gần ba năm thực hiện Chương trình việc đầu tư sản xuất VLXKN của các doanh nghiệp là rất khả quan đạt mục tiêu Chương trình 567 đề ra (mục tiêu Chương trình năm 2015 là 20-25%).
Nhiều ưu đãi về thuế cho sản xuất VLXKN
Để thúc đẩy Chương trình 567 vào thực tế, khuyến khích các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế tham gia đầu tư sản xuất VLXKN, trong những năm qua nhà nước đã có nhiều chính sách khuyến khích phát triển VLXKN như: ưu đãi thuế suất, thuế nhập khẩu đối với vật tư, thiết bị nhập khẩu để phục vụ dự án chế tạo thiết bị sản xuất vật liệu xây không nung nhẹ và sản xuất gạch xi măng cốt liệu công suất từ 7 triệu viên /năm trở lên.
Ngoài ra, các dự án đầu tư sản xuất các loại VLXKN nhẹ có tên trong danh mục lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư sẽ được hưởng ưu đãi về thuế nhập khẩu; Dự án chế tạo thiết bị sản xuất VLXKN nếu đáp ứng về địa bàn thì được hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp.
Ngoài ra, các dự án đầu tư sản xuất các loại VLXD loại nhẹ còn được miễn tiền thuê đất trong thời gian xây dựng; miễn tiền thuê đất nếu dự án được đầu tư tại địa bàn kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn.
Đặc biệt, được miễn tiền sử dụng đất nếu dự án được đầu tư tại địa bàn kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn; Giảm 30% tiền sử dụng đất nếu dự án thuộc danh mục lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư không thuộc địa bàn kinh tế xã hội khó khăn; Được miễn tiền thuế sử dụng đất phi nông nghiệp…

Thứ Ba, 2 tháng 9, 2014

Phát triển gạch không nung tại AN GIANG

Phát triển sản xuất và sử dụng vật liệu xây không nung (gọi tắt là VLXKN) để thay thế gạch đất sét nung nhằm tận dụng tiềm năng và phát huy lợi thế của địa phương, tiết kiệm đất nông nghiệp, góp phần giảm thiểu phát thải khí nhà kính và ô nhiễm môi trường, tiết kiệm nhiên liệu, giảm chi phí xử lý phế thải của các ngành công nghiệp, đem lại hiệu quả kinh tế chung cho toàn xã hội.
Ngày 28 tháng 4 năm 2010 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 567/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chương trình phát triển vật liệu xây không nung đến năm 2020; Chỉ thị số 10/CT-TTg  ngày 16 tháng 4 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường sử dụng vật liệu xây không nung và hạn chế sản xuất, sử dụng gạch đất sét nung; Thông tư số 09/TT-BXD ngày 28 tháng 11 năm 2012 của Bộ Xây dựng về việc Quy định sử dụng vật liệu xây không nung trong các công trình xây dựng.


Sở Xây dựng đã tham mưu UBND tỉnh ban hành Kế hoạch số 05/KH-UBND ngày 23/01/2014 của UBND tỉnh về việc tổ chức triển khai phát triển sản xuất, sử dụng vật liệu xây không nung và lộ trình xóa bỏ lò thủ công sản xuất gạch đất sét nung trên địa bàn tỉnh An Giang và chuyển sang sử các dây chuyền sản xuất gạch không nung đến năm 2020.
- Tờ trình của Sở Xây dựng số 73/TTr-SXD ngày 28/8/2013 về triển khai thực hiện Thông tư 09/2012/TT-BXD. Ngày 13/9/2013, Văn phòng UBND tỉnh có Công văn số 3046/VPUBND-ĐTXD về ý kiến thống nhất của Chủ tịch UBND tỉnh theo Tờ trình của Sở Xây dựng. Theo đó quy định việc sử dụng vật liệu xây không nung trong các công trình xây dựng trên địa bàn tỉnh An Giang như sau:
1. Sử dụng vật liệu xây không nung (VLXKN) cho các công trình đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn Nhà nước trên địa bàn Long Xuyên, Châu Đốc.
    - Các dự án phê duyệt trước ngày 31/8/2013 thì thực hiện theo Quyết định đã phê duyệt (ngoại trừ các công trình được cơ quan thẩm tra thiết kế chọn chuyển sang VLXKN).
    - Các dự án phê duyệt sau ngày 31/8/2013 thì phải sử dụng VLXKN.
    2. Sử dụng VLXKN cho các công trình đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn Nhà nước trên các địa bàn còn lại của tỉnh (ngoài Long Xuyên và Châu Đốc).
    - Các dự án đã phê duyệt trước ngày 31/8/2013 thì thực hiện theo Quyết định đã phê duyệt (ngoại trừ các công trình được cơ quan thẩm tra thiết kế chọn chuyển sang VLXKN).
    - Các dự án chưa phê duyệt sau ngày 31/8/2013, thì đảm bảo sử dụng tối thiểu 50% VLXKN từ nay đến hết năm 2015 theo qui định của Thông tư 09/2012/TT-BXD ngày 28/11/2012 của Bộ Xây dựng, giao các đơn vị thẩm tra thiết kế cơ sở (Sở Xây dựng, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Công thương, phòng Tài chính kế hoạch các huyện, thị) chọn 50% dự án để sử dụng VLXKN. Danh mục các dự án và khối lượng sử dụng VLXKN được báo về Sở Xây dựng vào ngày 20 của tháng cuối mỗi quí để tổng hợp báo cáo UBND tỉnh.
    - Các dự án được phê duyệt sau ngày 31/12/2015 phải sử dụng 100% VLXKN.
* Ngoài ra, theo Kế hoạch số 05/KH-UBND ngày 24/01/2014 của UBND tỉnh, có quy định:
- Từ nay đến năm 2015, đối với các công trình cao tầng (từ 09 tầng trở lên không phân biệt nguồn vốn, địa bàn xây dựng) phải sử dụng 30% VLXKN và sau năm 2015 phải sử dụng 50% VLXKN loại nhẹ trong tổng số vật liệu xây (tính theo thể tích khối xây).
- Khuyến khích sử dụng VLXKN trong các công trình xây dựng không phân biệt nguồn vốn, không phân biệt khu vực đô thị, không phân biệt số tầng.

* Để đáp ứng nhu cầu tiêu thụ, sử dụng VLXKN, trên địa bàn tỉnh hiện nay có các đơn vị đầu tư máy gạch không nung như:
- Công ty Cổ phần Địa ốc An Giang đã đầu tư dây chuyền sản xuất, sản lượng 12 triệu viên/năm, sản phẩm đã đưa vào thị trường.
- Công ty TNHH MTV xây lắp An Giang đầu tư dây chuyền sản xuất với  sản lượng 40 triệu viên/năm, sản phẩm đã đưa vào thị trường.
- Công ty Hòa Phúc Nguyễn đầu tư dây chuyền sản xuất với sản lượng 2 triệu viên/năm, sản phẩm đã đưa vào thị trường.
- Ba cơ sở sản xuất tại huyện Tịnh Biên, sản lượng của một cơ sở là 250.000 viên/năm.
- Một cơ sở sản xuất tại huyện Tri Tôn, sản lượng của mỗi cơ sở là 290.000 viên/năm.

Đến nay các huyện, thị xã, thành phố trong tỉnh đã triển khai thực hiện tốt các Quyết định, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư của Bộ Xây dựng và Kế hoạch của UBND tỉnh về sử dụng gạch không nung trên địa bàn tỉnh./.
Theo Sở xây dựng An Giang